Bác Hồ đã đạt được mơ ước “Tự do cho đồng bào tôi”

by ERA Capital
0 comment

Thanh niên Nguyễn Tất Thành đã đạt được mục tiêu như mơ ước: “Tự do cho người dân tôi, độc lập cho đất nước tôi” sau hơn 3 thập kỷ gian nan tìm kiếm con đường cứu quốc.

Một sự kiện đặc biệt quan trọng đã diễn ra vào ngày 5/6/1911 cách đây 110 năm, không chỉ ảnh hưởng đến cuộc đời hoạt động cách mạng của Bác Hồ, mà còn tác động đến cả dân tộc Việt Nam. Nguyễn Tất Thành, một thanh niên yêu nước đã thực hiện được như những gì Người đã làm sau chuyến đi bôn ba kéo dài 30 năm, đi qua 3 châu lục, 4 đại dương và hơn 30 quốc gia, thành phố: “Tự do cho người tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi”.

”Cần phải ra nước ngoài để có cái nhìn rõ ràng hơn.”

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã giải thích nguyên nhân phức tạp của việc giữa Nguyễn Tất Thành – một thanh niên yêu nước quyết tìm mọi cách để ra đi bằng được. Vào năm 1965, khi trả lời phỏng vấn của nhà văn Mỹ Anna Lui Strong, ông cho biết nhân dân Việt Nam thường tự hỏi ai sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của Pháp, có người cho rằng là Anh, có người lại cho là Mỹ. Ông quyết định phải đi ra nước ngoài để tìm hiểu và sau khi khảo sát họ làm ăn ra sao, ông sẽ quay trở lại giúp đồng bào của mình.

Thời sự

Khi trả lời phỏng vấn của một nhà báo Nga, Hồ Chủ tịch đã đề cập đến lý do đã thúc đẩy ông, khi ông vừa tròn 20 tuổi, không có tiền bạc, không có mối quan hệ, tìm kiếm những ý tưởng cứu nước mới mẻ và phù hợp cho chính mình và đất nước. “Lần đầu tiên khi tôi 13 tuổi, tôi nghe về ba từ Pháp ‘Tự do, bình đẳng, bác ái’. Với chúng tôi, người da trắng đều là người Pháp. Người Pháp đã nói như vậy. Từ đó, tôi muốn tìm hiểu về văn hóa Pháp và những điều ẩn giấu đằng sau những từ đó. Nhưng trong trường học cho người bản địa, họ chỉ dạy như dạy vẹt và không cho phép tôi đọc sách báo. Không chỉ sách của các tác giả mới nổi, mà cả Rousseou và Montesquier cũng bị cấm. Vậy nên tôi quyết định tìm cách đi đến nước ngoài”.

Có cơ hội đọc những tác phẩm quý, tiếp cận những ý niệm tiến bộ của các nhà khai sáng Pháp khi làm trợ giáo, giảng dạy tại Trường Dục Thanh, Phan Thiết, những người trẻ – giáo viên trẻ nhận ra rằng ước mơ đi đến nước ngoài để tìm kiếm lối thoát cho dân tộc là có cơ sở thực tế. Sau đó, trong khi “đi lang thang để tìm cách sang phương Tây” – như họ sau này tâm sự, khi đặt chân đến Sài Gòn, họ nhận ra một sự thật đáng buồn: Sài Gòn – Viễn Đông tráng lệ của thực dân Pháp, nhưng với người dân Việt Nam nô lệ, đó vẫn là thành phố của bất công và nghèo đói. Đau đớn suy ngẫm, họ tự hỏi: “nhưng điều kỳ lạ hơn cả là trong tình huống như vậy, tại sao dân mình vẫn phải sống khổ sở và bị khinh rẻ”.

Câu hỏi kích thích “Làm sao để giúp đỡ người dân, giải cứu đất nước?” Thường xuất hiện trong suy nghĩ của mọi người. Cha của Phó Bảng Nguyễn Sinh Sắc (Nguyễn Sinh Huy) đã nói một câu u buồn “Tìm cha đúng là tốt, nhưng điều cần thiết hơn vẫn là tìm cách giải cứu dân tộc”… Điều này đã thúc đẩy thanh niên yêu nước ấy quyết tâm tìm kiếm mọi phương pháp để biến giấc mơ thành hiện thực.

Thời sự

Quyết tâm đến cùng, nói là làm. Trên chiếc tàu của đô đốc Latouche Treville khởi hành từ cảng Nhà Rồng (TP. HCM) vào ngày 05/6/1911, Nguyễn Tất Thành – một phụ bếp trẻ đã vượt qua những khó khăn và trở ngại để đến đích. Ông là một người yêu nước và đã khởi đầu hành trình tìm đường cứu nước và giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

Chàng trai trẻ làm việc như một phụ bếp, tên là Văn Ba, là một người yêu nước theo hình tượng của Nguyễn Tất Thành. Anh đã vượt qua nhiều khó khăn và trở ngại để có thể lên tàu đô đốc Latouche Treville từ cảng Nhà Rồng (Sài Gòn) đi đến Marseille (Pháp) vào ngày 05/6/1911. Đó cũng chính là ngày mà anh bắt đầu chuyến đi tìm kiếm đường cứu nước và giải phóng cho dân tộc Việt Nam.

Khởi hành để quay trở về.

Việc rời bỏ để quay về đã trở thành một cuộc hành trình gian nan kéo dài 30 năm của Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc, với mục đích tìm kiếm lối cứu nước trong quê hương khách quê. Trong suốt thời gian đó, Người đã đến nhiều địa điểm khác nhau trên nhiều châu lục khác nhau. Khi trở về, Người đã mang đến món quà quý giá cho đất nước: sự giải thoát cho dân tộc khỏi đêm tối của nô lệ và bất công.

Được khám phá bởi Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc, lối thoát đó đầy kiên định, sáng tạo và linh hoạt trên mỗi chặng dừng chân. Một tháng sau khi rời Bến cảng Nhà rồng, Nguyễn Tất Thành đã đặt chân lên đất Pháp. Đó là lần đầu tiên anh đặt chân trên mảnh đất được coi là nơi của sự giàu có và phát triển, nhưng anh đã nhận ra rằng ở nước Pháp cũng có người nghèo như ở quê hương của mình. Sự thật đó đã khiến anh tự đặt câu hỏi: “Tại sao người Pháp không giúp đỡ đồng bào của họ trước khi giúp đỡ chúng ta?”

Từ nước Pháp, Người đã thực hiện hành trình đến châu Phi và ghé thăm nhiều cảng ở Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Trung Mỹ, Nam Mỹ và Mỹ. Trong quá trình đi lại đó, Người đã chứng kiến tình trạng khổ cực của người lao động bị áp bức và bóc lột dã man dưới chế độ độc tài. Tại Mỹ, Người đã tìm hiểu về cuộc đấu tranh giành độc lập của nhân dân Mỹ và đời sống của người lao động Mỹ bằng cách làm việc để kiếm sống. Người đã đến thăm quận Brooklyn của thành phố New York và khu Harlem để tìm hiểu về cuộc chiến chống phân biệt chủng tộc của người da đen. Josephine Stenson, một nhà sử học Mỹ, đã tìm thấy một quyển bút tích ghi lại cảm nhận của các du khách khi đến tham quan và chiêm ngưỡng bức tượng Nữ thần Tự do. Trong đó, Nguyễn Ái Quốc đã viết những dòng chữ đầy xúc động, bày tỏ sự lo lắng về tương lai của người da đen và phụ nữ, và mong muốn sự bình đẳng giữa các dân tộc và giới tính.

Thời sự

Sau khi gia nhập Đảng Xã hội Pháp vào đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành – Nguyễn Ái Quốc đã bắt đầu công cuộc tìm kiếm đường cứu nước cho đất nước. Ông và hai nhân vật khác là Phan Châu Trinh và Phan Văn Trường đã cùng nhau soạn thảo bản Yêu sách của nhân dân An Nam, với mong muốn đem tới cho Hội nghị Versailles thông điệp về tự do, bình đẳng và lòng bác ái. Đây là một bước ngoặt quan trọng trong hành trình của ông.

Thành công của Cách mạng Tháng Mười Nga đã làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế phát triển mạnh mẽ, đó là một bước ngoặt lớn thứ hai. Tại Đại hội lần thứ hai Quốc tế Cộng sản vào năm 1920, bản Sơ thảo lần thứ nhất về các vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin đã được thông qua. Nguyễn Ái Quốc, hay Nguyễn Tất Thành như hiện nay, đã có cơ hội tiếp cận bản văn quan trọng đó. “Tôi cảm thấy rất phấn khởi và sáng tỏ khi đọc Luận cương của Lênin, tôi tin tưởng và cảm động đến nỗi rơi nước mắt. Hỡi những đồng bào đang chịu đựng nhiều đau khổ và gian khổ! Đây là con đường giải phóng mà chúng ta cần phải đi, đây là điều cần thiết cho chúng ta” – như Người kể lại sau đó. Ngồi một mình trong căn phòng, tôi đã nói những lời đó vang lên như đang nói trước một đám đông đông đảo.

Từ bản Luận cương của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã tìm thấy hướng đi và lộ trình cơ bản của phong trào giải phóng dân tộc, bao gồm cách mạng Việt Nam. Từ năm 1921 đến năm 1930, Nguyễn Ái Quốc đã nỗ lực truyền bá Chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam, để chuẩn bị cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong thời gian này, Người còn tập trung vào việc tổ chức và đào tạo cán bộ, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925) và mở nhiều lớp đào tạo cán bộ, gửi học sinh sang Liên Xô… Cuối cùng, vào ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập.

Vào ngày 28/1/1941, sau 30 năm sống và làm việc ở nước ngoài, khi mọi chuẩn bị đều hoàn tất, Nguyễn Ái Quốc quyết định trở về Việt Nam để trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. Sau 3 thập kỷ xa xôi, ông đã trở lại quê hương. Nhờ đó, dân tộc Việt Nam đã có cơ hội lịch sử để đánh bại đế quốc, thực dân và giành độc lập dân tộc của mình.

Hà Anh.

You may also like

Leave a Comment

You cannot copy content of this page