Thơ đường luật là gì? Luật được sử dụng trong thơ đường luật là gì?

by ERA Capital
0 comment

Cần hiểu rõ khái niệm và quy tắc của thơ đường để có thể nắm bắt sâu hơn về thể loại này và tạo ra những tác phẩm bất hủ.

Thơ đường luật là gì? Luật được sử dụng trong thơ đường luật là gì?

Thơ đường luật, hay còn được gọi là thơ luật đường, là một thể thơ đường xuất hiện từ thời nhà Đường ở Trung Quốc. Đây là một dạng thơ đường phát triển mạnh mẽ, không chỉ trong quê hương mà còn nổi tiếng ở một số đất nước lân cận. Nó được coi là thể loại thơ tiêu biểu nhất của nhà Đường và tinh hoa của thi ca Trung Hoa.

Thơ Đường luật còn được xem như thể loại thơ cận thể, trái ngược và khác biệt với thể loại thơ cổ thể, không tuân theo các luật đó.

Hệ thống quy tắc trong Thơ Đường rất phức tạp và bao gồm 5 điều: Niêm, Luật, Đối, Vần và Bố cục.

Về mặt hình thức, thơ đường luật có thể được phân loại thành các hình thức như;

  • Thất ngôn bát cú là một dạng thể thơ Đường luật phổ biến, gồm tám câu với mỗi câu có 7 chữ.
  • Bốn câu thất ngôn, mỗi câu bao gồm bảy từ.
  • Ngũ ngôn bát cú: Tám câu, mỗi câu năm chữ.
  • Ngũ ngôn tứ tuyệt: bốn câu, mỗi câu năm từ.
  • Có nhiều dạng không phổ biến khác ngoài những dạng đã được kể trên. Khi làm thơ đường luật, người Việt Nam tuân theo những nguyên tắc này.

    Tìm hiểu về thơ đường luật tại một số quốc gia

    Việt Nam

    Vì văn chương truyền thống, hệ thống giáo dục và khả năng viết văn ở Việt Nam trong thời kỳ trung đại đều sử dụng tiếng Hán, người Việt cũng đã sử dụng tiếng Hán và các thể loại thơ của người Trung Hoa để viết thơ và văn, bao gồm cả thể loại thơ đường Luật.

    Nguyễn Thuyên được coi là người đầu tiên mang tiếng Việt vào trong thơ văn của Việt Nam. Ông tạo ra thể thơ Hàn luật, kết hợp giữa thơ Đường luật và các thể loại thơ dân tộc Việt.

    Thể loại thơ này ở Việt Nam kéo dài từ thời nhà Trần cho đến nửa đầu thế kỷ XX. Sau khi phong trào thơ mới nổi lên, việc sử dụng luật thi đã giảm đáng kể.

    Nhật Bản

    Vào khoảng thế kỷ thứ 5, chữ Hán đã bắt đầu được mang vào Nhật Bản. Khi thái tử Shotoku (Thánh Đức) bắt đầu công việc chính trị vào năm 593, ông đã đưa ra một văn bản hiến pháp có tên “Thập thất điều” và gửi nhiều đoàn sứ sang Trung Quốc để học tập.

    Vào năm 710, Nữ hoàng Genmei rời bỏ thủ đô để đến Nara và đổi tên thành Heijo-kyo (Bình Thành Kinh). Năm 794, Thiên hoàng Kammu cũng rời khỏi thủ đô để thành lập một kinh đô mới là Heian-kyo (Bình An Kinh). Thời kỳ này Nhật Bản chấp nhận và mô phỏng theo kiến trúc, văn hóa, nghi thức và cả văn học của thời nhà Đường Trung Quốc. Thời kỳ này kéo dài ít nhất cho đến khi Nhật Bản dừng các hoạt động giao lưu và học tập với lục địa vào năm 894. Thơ và văn bằng chữ Hán trở thành ngôn ngữ chính thức và đồng thời phục vụ cho các hoạt động tại cung đình.

    Thành tựu nổi bật nhất của người Nhật Bản trong thể loại thơ Đường luật là Kaifuso (Hoài phong tảo, 751). Tập thơ này bao gồm 120 bài thơ được viết bằng chữ Hán, do nhiều nhà thơ nổi tiếng từ hoàng đế và các thành viên quý tộc, hoàng tộc cho đến những tăng lữ từ Trung Quốc nhập cư vào Nhật Bản. Các bài thơ chủ yếu được sáng tác trong thế kỷ thứ 7 và 8, và thể loại thơ chính trong tập thơ này là bát cú, tứ tuyệt và ngũ ngôn.

    Nhật Bản

    Luật

    Đối âm (luật bằng trắc)

    Luật thơ Đường sẽ dựa trên sự kết hợp giữa thanh trắc và thanh bằng. Chúng ta sử dụng các chữ thứ 2, 4, 6 và 7 trong cùng một câu thơ để xây dựng luật. Thanh bằng bao gồm các chữ không có dấu hoặc dấu huyền, trong khi thanh trắc bao gồm tất cả các dấu còn lại như sắc, hỏi, ngã và nặng.

    Bài viết bằng luật là những bài sử dụng thanh bằng trong chữ thứ hai của câu đầu tiên. Nếu chữ thứ hai trong câu đầu tiên sử dụng thanh sắc, đó được gọi là luật trắc. Chữ thứ hai và chữ thứ sáu trong cùng một câu phải có cùng thanh điệu. Đồng thời, chữ thứ tư không được có cùng thanh điệu với hai chữ kia.

    Nếu chữ thứ hai và thứ sáu đã dùng thanh trắc, thì chữ thứ tư phải dùng thanh bằng hoặc ngược lại. Nếu một câu thơ trong bài thơ đường luật không tuân thủ quy tắc này, được gọi là “thất luật”.

    Đối ý

    Một nguyên tắc cố định trong thể loại đường luật của một bài thơ là ý nghĩa của câu thứ ba, câu thứ tư phải đối nhau và cả hai câu thứ năm, thứ sáu cũng phải đối nhau.

    Đối là sự tương phản về ý nghĩa của từ, bao gồm cả từ đơn, từ láy và từ ghép, cũng như cách sử dụng ngôn ngữ của tác giả. Đối chính là việc đối đáp giữa động từ và danh từ, hay giữa hai danh từ. Đối cảnh là sự so sánh giữa cảnh động và cảnh tĩnh, hay giữa trên và dưới…

    Trong một bài thơ đường luật, nếu các câu 3, 4 không đối nhau hoặc các câu 5, 6 không đối nhau, thì được gọi là “thất đối”.

    Một số dạng thơ đường luật

    Thất ngôn bát cú

    Thể loại thơ thất ngôn bát cú đã xuất hiện từ rất sớm ở Trung Hoa và sau đó được các nhà thơ trong thời Đường đặt lại quy tắc rõ ràng, cụ thể hơn và phát triển mạnh mẽ. Đặc điểm nổi bật của thể loại thơ này là mỗi bài thơ gồm 8 câu, mỗi câu có 7 chữ và tuân theo một quy tắc rất chặt chẽ.

    Thất ngôn tứ tuyệt

    Thực sự, đó là một bài “thất ngôn bát cú” nhưng chỉ giữ lại 4 câu giữa. Luật bằng trắc và niêm vẫn được giữ nguyên, nhưng có thể bỏ luật đối ở hai câu 3, 4 hoặc 5, 6. Điều này tạo nên một bài thơ “4 câu 3 vần” mà Nguyễn Du đã sử dụng để viết truyện Kiều.

    Ngũ ngôn tứ tuyệt

    Thật ra, đó chỉ là một bài thơ ngắn, loại bỏ hai chữ đầu trong mỗi câu; các chữ và quy tắc sử dụng còn lại vẫn giữ nguyên quy tắc bằng trắc, niêm và vần.

    Ngũ ngôn bát cú

    Biến thể từ bài thất ngôn bát cú, bỏ 2 chữ đầu ở mỗi câu, giữ nguyên luật bằng trắc, niêm và vần ở các chữ còn lại.

    Khi sáng tác thơ Đường Luật, chúng ta cần tuân thủ niêm luật. Nếu không tuân thủ quy tắc, dù bài thơ có hay đến mức nào đi nữa thì cũng sẽ không được chấp nhận.

    Vanhocquenha.Vn – Văn Học.

    You may also like

    Leave a Comment

    You cannot copy content of this page