Thực hiện việc lành với lòng đố kỵ chịu đau khổ làm cho loài A tu la được tái sinh.
Asura là từ tiếng Phạn để chỉ “A tu la”. Asura còn có nhiều tên gọi khác như A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A tu luân. Trong Kinh, Asura được chia thành ba loại: 1. Asura thiên đạo. 2. Asura quỉ đạo. 3. Asura súc đạo.
Theo Từ Điển Phật Học Huệ Quang, trong quyển 1, trang 84, được giải thích rằng “A tu la” là một trong sáu đường, một trong tám bộ phận, một trong mười giới, và là một trong những vị thần cổ xưa nhất ở Ấn Độ.

A tu la tiếng Phạn là Asura. A tu la có nhiều tên gọi khác nhau: A tác la, A tô la, A tố la, A tố lạc, A tu luân.
Trường quỷ thần chiến đấu, thường bị xem là ác thần và không ngừng chống lại trời Đế Thích, được gọi là A tu la trường, A tu la chiến…
Theo Kinh Tăng Nhất A Hàm 3, A tu la có chiều cao 84.000 đơn vị và chiều rộng miệng là 1.000 đơn vị. Cũng có đề cập đến A tu la trong Kinh Trường A Hàm 20 và Kinh Đại Lâu Thán 2. Thậm chí Kinh Khởi Thế Nhân Bản 5 cũng đề cập đến nơi A tu la sống và câu chuyện về họ.
Sáu cõi luân hồi hiện diện ngay tại trạng thái của tâm.
A tu la có ba loại nghiệp nhân mà các Kinh thường đề cập đến làm cho chúng ta sinh ra trong thế giới này: Sân, mạn và nghi.
Theo Kinh Phật Vị Thủ Ca Trưởng Giả Thuyết Nghiệp Báo Sai Biệt, có 10 nguyên nhân khiến con người sinh ra trong thế giới vật chất.
1. Làm việc ác nhỏ là một thân phận.2. Nói lời ác nhỏ ra từ miệng.3. Ý nghĩ đều là những ý nghĩ ác nhỏ.4. Tâm hướng kiêu mạn.5. Tâm hướng ngã mạn.6. Tâm hướng tăng thượng mạn.7. Tâm hướng đại mạn.8. Tâm hướng tà mạn.9. Tâm hướng mạn mạn.10. Hướng về những căn lành.
Có nhiều giả thuyết về hình tượng của A tu la. Một giả thuyết cho rằng A tu la có 9 đầu, 1000 mắt, miệng phun lửa, 990 tay, 6 chân và thân to gấp 4 lần núi Tu Di. Một giả thuyết khác cho rằng A tu la có 1000 đầu, 2000 tay hoặc 10.000 đầu, 20.000 tay hoặc chỉ có 3 đầu và 6 tay. Còn một giả thuyết khác cho rằng A tu la có 3 mặt màu xanh đen, giận dữ và lõa hình, cùng với 6 cánh tay.